Gương trị liệu là gì? Các công bố khoa học về Gương trị liệu

Gương trị liệu là phương pháp chữa lành trong y tế và tâm lý, giúp giảm căng thẳng, tăng sự tự nhận thức và tự tin. Bắt nguồn từ nghi lễ tâm linh, đã phát triển mạnh mẽ trong y học từ thế kỷ 20. Gương trị liệu hoạt động bằng cách đối diện bản thân, giúp khám phá và xử lý cảm xúc tiêu cực. Các phương pháp bao gồm tự trải nghiệm, trị liệu nhóm và hỗ trợ điều trị tâm lý. Lợi ích của phương pháp này gồm tăng cường tự tin, cải thiện tự nhận thức và giảm căng thẳng. Gương trị liệu tiếp tục mở ra cơ hội cho y học và tâm lý học.

Gương Trị Liệu: Khái Niệm và Ứng Dụng

Gương trị liệu là một phương pháp được sử dụng trong lĩnh vực y tế và tâm lý để chữa lành và cải thiện sức khỏe tâm thần. Gương trị liệu không chỉ giúp giảm căng thẳng mà còn tăng cường sự tự nhận thức, chữa trị tổn thương tâm lý và cải thiện sự tự tin.

Lịch Sử Hình Thành và Phát Triển

Phương pháp gương trị liệu đã xuất hiện trong nhiều thế kỷ. Ban đầu, gương được sử dụng trong các nghi lễ tâm linh và tôn giáo. Tuy nhiên, ý tưởng về việc dùng gương để chữa trị trong y học đã phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 20. Nhiều nhà trị liệu đã nhận ra rằng hình ảnh phản chiếu có thể mang lại tác động tâm lý tích cực, từ đó mở ra một lĩnh vực mới trong nghiên cứu và ứng dụng trị liệu.

Cơ Chế Hoạt Động Của Gương Trị Liệu

Gương trị liệu hoạt động dựa trên nguyên lý tự nhận thức và phản ánh bản thân. Khi nhìn vào gương, một cá nhân có cơ hội đối diện với chính mình, tạo điều kiện cho việc tự phân tích và đánh giá cảm xúc. Quá trình này giúp khám phá và xử lý các cảm xúc tiêu cực, từ đó xây dựng một tinh thần mạnh mẽ và tích cực hơn.

Các Phương Pháp Ứng Dụng Gương Trị Liệu

Có nhiều cách áp dụng gương trị liệu trong thực tế. Một số kỹ thuật phổ biến bao gồm:

  • Tự Trải Nghiệm Qua Gương: Cá nhân ngồi trước gương và thể hiện cảm xúc của mình. Nhờ đó, họ có thể tự tìm ra giải pháp hoặc cân nhắc các tình huống đã xảy ra một cách bình tĩnh và rõ ràng hơn.
  • Gương Trị Liệu Nhóm: Hoạt động này cho phép một nhóm cùng tham gia trị liệu với nhau, giúp tăng sự tự nhận thức và chia sẻ cảm xúc trong một môi trường hỗ trợ.
  • Sử Dụng Gương Trong Liệu Pháp Tâm Lý: Các nhà trị liệu có thể sử dụng gương như một công cụ hỗ trợ trong việc điều trị các bệnh tâm lý như trầm cảm, lo âu và các rối loạn khác.

Lợi Ích Của Gương Trị Liệu

Gương trị liệu mang lại nhiều lợi ích thiết thực, bao gồm:

  • Tăng Cường Tự Tin: Giúp cá nhân cảm thấy tự tin hơn vào bản thân và khả năng của mình.
  • Cải Thiện Tự Nhận Thức: Mang lại cái nhìn rõ nét hơn về chính mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển cá nhân.
  • Giảm Căng Thẳng và Lo Âu: Giúp xoa dịu những cảm xúc tiêu cực và đưa tâm trí vào trạng thái thư giãn.

Kết Luận

Gương trị liệu là một công cụ mạnh mẽ trong việc cải thiện sức khỏe tâm lý và tinh thần. Bằng cách đối diện và phản ánh chính mình, mỗi cá nhân có thể tìm ra những khía cạnh mới mẻ của bản thân, giải quyết các vấn đề tư tưởng và bước tới một cuộc sống tích cực hơn. Trong tương lai, gương trị liệu hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển và mở ra nhiều cơ hội mới cho lĩnh vực y học và tâm lý học.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gương trị liệu":

MỘT SỐ YẾU TỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP GƯƠNG TRỊ LIỆU KẾT HỢP VỚI VẬN ĐỘNG TRỊ LIỆU Ở BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI DO ĐỘT QUỴ NÃO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định một số yếu tố có liên quan đến kết quả phục hồi chức năng bằng phương pháp gương trị liệu kết hợp với vận động trị liệu ở bệnh nhân liệt nửa người do đột quỵ não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 90 bệnh nhân bị liệt nửa người do đột quỵ não được can thiệp bằng phương pháp gương trị liệu tại bệnh viện Y học cổ truyền Cao Bằng thời gian từ ngày 3/7/2018 đến ngày 3/7/2020. Kết quả và kết luận: Ở nhóm tuổi 60 trở xuống có tỷ lệ vận động tốt là 92,31% cao hơn rất nhiều so với nhóm trên 60 tuổi là 20% (p<0,05). Bệnh nhân có thời gian đến viện sớm dưới 1 tháng hoặc từ 1 đến 3 tháng sau khi đột quỵ có tỷ lệ vận động tốt lần lượt là 96,43% và 86,21% cao hơn nhiều so với bệnh nhân đến muộn sau 3 tháng là 39,39% (p<0,05). Bệnh nhân có về khiếm khuyết thần kinh theo thang điểm NIHSS ở mức độ nhẹ thì kết quả phục hồi chức năng đạt mức độ tốt chiếm tỉ lệ 100% (p<0,05). Các yếu tố giới, bên liệt, loại tổn thương não không có mối liên quan đến kết quả phục hồi chức năng.
#Đột quỵ não #phục hồi chức năng #vật lý trị liệu #nhồi máu não #vận động trị liệu #gương trị liệu
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP GƯƠNG TRỊ LIỆU ĐẾN CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI DO ĐỘT QUỴ NÃO TẠI BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN CAO BẰNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp gương trị liệu đến chức năng vận động ở bệnh nhân liệt nửa người do đột quỵ não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả mô tả can thiệp đối chứng trên 180 bệnh nhân bị liệt nửa người do đột quỵ não đã điều trị tại bệnh viện Y học cổ truyền Cao Bằng thời gian từ ngày 3/7/2018 đến ngày 3/7/2020. Kết quả và kết luận: Sau 3 tháng can thiệp bằng phương pháp gương trị liệu ở nhóm can thiệp có 94,44% ngồi vững (trước điều trị 73,33%). Có 64,44% bệnh nhân tự đi lại được (trước tập là 32,22%). Mức độ vận động bàn tay liệt gia tăng sau thời gian điều trị 3 tháng ở cả hai nhóm, kết quả ở nhóm can thiệp cải thiện rõ rệt hơn so với nhóm chứng với mức độ vận động tốt và khá đến 75,56% (nhóm chứng chiếm 52,22%). Mức độ khéo léo bàn tay liệt gia tăng sau thời gian điều trị 3 tháng, với mức độ khéo léo 4,5,6 là mức độ khéo léo nhất chiếm 56,66% (trước điều trị 2,22%).
#Đột quỵ não #phục hồi chức năng #vật lý trị liệu #nhồi máu não #vận động trị liệu #gương trị liệu.
KẾT QUẢ PHỐI HỢP CAN THIỆP GƯƠNG TRỊ LIỆU VÀ VẬN ĐỘNG CƯỠNG BỨC BÊN LIỆT CƯỜNG ĐỘ THẤP TRONG PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHI TRÊN Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO GIAI ĐOẠN CẤP
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phối hợp can thiệp gương trị liệu và vận động cưỡng bức bên liệt (CIMT) cường độ thấp trong phục hồi chức năng chi trên ở bệnh nhân nhồi máu não giai đoạn cấp. Đối tượng và phương pháp: 60 bệnh nhân nhồi máu não giai đoạn cấp (<1 tháng) điều trị nội trú tại Trung tâm Phục hồi chức năng Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2020 đến tháng 8/2021, được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm can thiệp CIMT cường độ thấp phối hợp gương trị liệu và nhóm đối chứng. Tất cả các nhóm được tập luyện chương trình hoạt động trị liệu tiêu chuẩn 40 phút/ngày, nhóm can thiệp được tập luyện tay liệt tích cực 60 phút/ngày, 3 giờ cố định tay lành, 20 phút tập với gương, 5 ngày/tuần trong 3 tuần. Các đối tượng được đánh giá trước can thiệp và sau 3 tuần bằng thang điểm Nhật ký hoạt động vận động (Motor Activity Log: MAL), đánh giá mức độ phụ thuộc trong các hoạt động sinh hoạt cơ bản hàng ngày bằng thang điểm Barthel. Kết quả: Sau 3 tuần can thiệp, nhóm can thiệp cho thấy điểm MAL AOU và QOM trung bình là 2.23 và 2.01 với mức chênh lệch điểm AOU và QOM lần lượt là 1.57 và 1.53, cao hơn nhóm chứng (0.53 và 0.62), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0.000. Có sự khác biệt có ý nghĩa về phân loại mức độ phụ thuộc ADL giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp với p = 0.001. Kết luận: Bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não được tập phục hồi chức năng chi trên có phối hợp CIMT cường độ thấp và gương trị liệu ở giai đoạn cấp giúp cải thiện chức năng chi trên tốt hơn so với chương trình hoạt động trị liệu thông thường trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
#Gương trị liệu #CIMT #phục hồi chức năng chi trên #nhồi máu não.
Thời gian theo dõi tối thiểu cần thiết để ước tính tỷ lệ chữa khỏi thống kê ở bệnh nhân ung thư: xác minh bằng dữ liệu từ 42 vị trí ung thư trong cơ sở dữ liệu SEER Dịch bởi AI
BMC Cancer - Tập 5 - Trang 1-9 - 2005
Tỷ lệ sống sót năm năm hiện tại thường được sử dụng không đủ để đại diện cho sự chữa khỏi thống kê. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định số năm tối thiểu cần thiết cho việc theo dõi để ước tính tỷ lệ chữa khỏi thống kê, bằng cách sử dụng phân phối lognormal của thời gian sống sót của những người chết vì ung thư của họ. Chúng tôi giới thiệu thuật ngữ, năm ngưỡng, thời gian theo dõi cho bệnh nhân chết do ung thư cụ thể bao phủ hầu hết dữ liệu sống sót, để lại chưa đến 2,25% không có số liệu. Điều này gần đủ để được xem là chữa khỏi ung thư cụ thể đó. Dữ liệu từ cơ sở dữ liệu Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả (SEER) đã được kiểm tra xem thời gian sống sót của bệnh nhân ung thư chết vì bệnh có theo phân phối lognormal hay không bằng cách sử dụng phương pháp chi bình phương tối thiểu. Các bệnh nhân được chẩn đoán từ 1973-1992 trong các registros của Connecticut và Detroit đã được chọn để tối đa hóa thời gian theo dõi lên đến 27 năm vào năm 1999. Tổng cộng có 49 vị trí cơ quan cụ thể đã được kiểm tra. Các tham số của các phân phối lognormal đó đã được tìm thấy cho từng vị trí ung thư. Tỷ lệ sống sót cụ thể của ung thư tại các năm ngưỡng đã được so sánh với ước tính sống sót dài hạn có sẵn nhất của Kaplan-Meier. Các đặc điểm của thời gian sống sót cụ thể của ung thư của bệnh nhân ung thư chết vì bệnh từ 42 vị trí ung thư trong 49 vị trí đã được xác minh theo các phân phối lognormal khác nhau. Các năm ngưỡng được xác nhận cho sự chữa khỏi thống kê biến đổi cho các vị trí ung thư khác nhau, từ 2,6 năm cho ung thư tuyến tụy đến 25,2 năm cho ung thư tuyến nước bọt. Tại năm ngưỡng, tỷ lệ chữa khỏi thống kê ước tính cho 40 vị trí ung thư được tìm thấy phù hợp với tỷ lệ sống sót dài hạn theo chuyển giao (actuarial) ước tính bởi phương pháp Kaplan-Meier trong vòng sáu điểm phần trăm. Đối với hai vị trí ung thư: vú và tuyến giáp, các năm ngưỡng lâu đến mức mà tỷ lệ sống sót cụ thể của ung thư vẫn chưa thể thu được vì dữ liệu SEER không cung cấp được theo dõi đủ lâu. Nghiên cứu hiện tại gợi ý rằng cần có một năm ngưỡng nhất định phải chờ đợi trước khi tỷ lệ chữa khỏi thống kê có thể được ước tính cho từng vị trí ung thư. Đối với một số loại ung thư, chẳng hạn như ung thư vú và tuyến giáp, tỷ lệ sống sót 5 hoặc 10 năm không phản ánh đầy đủ tỷ lệ chữa khỏi thống kê, và nhấn mạnh sự cần thiết của việc theo dõi lâu dài cho những bệnh nhân này.
#tỷ lệ sống sót #ung thư #phân phối lognormal #năm ngưỡng #theo dõi dài hạn
Tổng số: 4   
  • 1